Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014

Chiến tranh và những người nữ giới “hóa chia sẻ ngay đá”.

Ngửa mặt lên trời bà thầm cầu khấn

Chiến tranh và những người đàn bà “hóa đá”

Vì cưới được một tuần thì người lính trẻ Trần Văn Minh lại mang balô ra chiến trường. Tuy thương vợ. Bà Tính đang công tác tại Trạm Kiểm định chất lượng dược phẩm. Bà Hà Thị Tính bên cuốn nhật ký Suốt buổi trò chuyện. Chị rứa thay anh ấy dạy dỗ các cháu”. Nơi bố cô cất chồng thư và ngửa mặt khóc.

Lầm bầm lời căn dặn mẹ con ở nhà phải thật kiên cường. Lòng anh như lửa đốt. Noi gương cha và anh. Nhưng có những khi ngắt quãng cả tháng trời. Đó là lần chung cuộc mình còn được nhìn thấy chồng bằng da. Anh đã từng nói với em: “Trong chống chọi.

Là vợ của người đã khuất. Sau khi soạn xong giáo án. Có sự kính trọng và cảm thông với người đàn bà đã hơn 40 “hóa đá” bên di ảnh tình nhân. Mộ ông Minh nằm cô đơn bên triền núi ven sông. Có vẻ như bà già hơn so với tuổi. Rồi đến lúc 2 cô con gái đi học xa và bước chân theo chồng. Và nữa: “Anh đi anh im lặng! Để lại cho cuộc thế 4 mẹ con em đầy cay đắng và khổ đau.

Ông Minh chỉ kịp về thăm nhà 2 lần. Những lá thư ấy đã tiếp cho bà thêm sức mạnh để vượt lên tình cảnh khó khăn. Dẫn đến tê liệt. Tổ quốc còn chia cắt. Cặp mắt trũng sâu. Một ngày cuối năm 1971. Ban đêm về bóc lạc và đan áo thuê để kiếm tiền nuôi con. Sợ con gái mình sẽ chết mòn trong khổ đau. Rồi bà vặn nhỏ ngọn đèn dầu.

Dù có lương bổng hưu nhưng bà Trinh vẫn mở một quán nhỏ để bán hàng tạp hóa.

Cô giáo Hoàng Thị Trinh xin phép cha mẹ liệt sĩ Hồ Đức Tín nhận mình làm con dâu và xin được rước di ảnh bồ về nhà hương khói. E thẹn nên không kịp nói lời hẹn ước. Một đám cưới giản dị được tổ chức trong niềm hân hoan của hai bên gia đình và làng xóm. Chốc lát đó bà Tính chỉ biết lao xuống ôm nắm xương của chồng rồi òa khóc.

Em lại khóc. Nên bà luôn gắng gượng để hoàn tất mọi công việc được giao. Lúc đó. Nhớ đến chồng. Thỏa lòng mong ước và nỗi khao khát. Rau hết gạo cạn. Con cháu đuề huề.

Ngày hôm sau là Chủ nhật. Trần Văn Sơn - con trai út của bà đã lặng đúng ra đi ở tuổi 45. Từ bấy đến nay. Hễ làm việc bà cũng “hỏi ý kiến” hoặc “báo cáo” với chồng. Lo vì chiến tranh. Chúng tôi chợt nghĩ hay tên bà đã vận vào chính cuộc thế bà? Bởi cho đến nay. Cô dâu Hà Thị Tính hưởng niềm hạnh phúc làm vợ vẻn vẹn chỉ được một tuần lễ.

”. Lòng luôn phấp phỏng. Cô giáo vừa mừng. Rồi bà kể về thế cục và những trang nhật ký đẫm nước mắt của mình. Nhận được thư và quà. Tính ra đã 43 năm. Hết giờ lên lớp lại về nhà ngồi thờ thẫn. Kèm theo là một bức thư với lời lẽ tha thiết yêu thương.

Thiếu thốn. Bố cô lại lấy chồng thư và các kỷ vật như nón. Có lúc tưởng nghe đâu sẽ gục ngã. Những đêm giao thừa mình bà với đứa con trai tàn tật trong căn nhà đìu hiu. Sau hơn một giờ đồng hồ đào xới. Xấu số của bao người nữ giới Việt Nam trước mầm họa chiến tranh.

Có thể thấy. Bom đạn ngày càng khốc liệt. Đợi chờ. Đảm đang. Vào một tháng ngày 8/1968. Em còn sống. Nữ chủ toạ xã Xuân An gặp Trần Văn Minh (quê Nghệ An) - chàng thanh niên 18 tuổi tự nguyện xuất phát nhập ngũ. Hai năm sau. Bà Hà Thị Tính và ông Trần Văn Minh có với nhau 3 người con. Dù sao bà cũng đã được làm vợ (dù chồng bà đã hy sinh) và làm mẹ của những đứa con (dù có người bị tật nguyền).

Thế cục anh. ”. Mỗi lần về thắp hương cho đồng đội đều không cầm được nước mắt. Cô gái ấy trở thành người đàn bà trước hết giữ chức vụ chủ toạ xã Xuân An. Đó là những lần công việc quá vất vả và bà còn phải lo chạy chữa thuốc thang cho con trai. Mỗi khi có dịp. 2 người con gái đầu và cậu con trai út.

Không kể hết những quyến luyến. Bồn chồn. Tin dữ chợt đến khiến cô giáo Hoàng Thị Trinh quỵ ngã. TP Vinh (Nghệ An) vẫn còn ít nhiều may mắn. Ở nhà. Rồi. Trước mắt anh là quân thù của nhân dân”. Bà Tính thắp mấy nén nhang. Nôn nao. Biết đâu anh Minh đi tuyến Thái Lan. Khi vừa nhận Giấy báo tử của chồng không lâu thì trong một trận bom kinh hồn.

Đã hơn 30 năm rồi nhưng có những đêm em chẳng thể nào chợp mắt được”. Mong hương hồn người đội viên được yên nghỉ nơi cửu tuyền. Nói chuyện với bà. Có nhẽ anh đã thỏa ước nguyện. Bà vẫn nghe văng vẳng đâu đây tiếng ông khích lệ và nhắc nhỏm.

Dược sĩ Hà Thị Tính (75 tuổi) ở Phường Hưng Phúc. Một năm sau khi đội viên Hồ Đức Tín ghé về thăm nhà. Bà ngồi khóc một mình.

Một đôi dép và vải may áo xống. Khi đã sắp bước vào độ tuổi “cổ lai hy”. Khi cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào tuổi gay. Cô giáo làng hết mực bất thần khi món quà ấy là tấm Huân chương Chiến công hạng Ba.

Huyện Nam Đàn (Nghệ An). Anh ấy viết thư đáp muốn được cùng tôi ăn cơm suốt thế cuộc. Rồi một ngày tình cờ vì công việc. Đêm đó. Bà Tính nhận báo tử của chồng. Nay xa cách Hỡi ánh trăng Thu rải thảm trên đường Hai bánh xe em vẫn lăn đều Anh ước gì có đôi bánh xe bon Để ngày hòa bình gặp lại Anh cùng em thăm cảnh nước non”. Ai coi ngó con?. Những lúc như thế. Tưởng thế là ổn

Chiến tranh và những người đàn bà “hóa đá”

Vào ngày giỗ liệt sĩ Tín. Lòng bà thắc thỏm lo lắng.

Tìm được niềm vui và sự san sẻ. Từ ngày khởi hành tòng ngũ. Người ấy đã nắm lấy tay bà và khóc: “Anh Minh đi thật rồi. Anh cũng xin hứa với em và các con trong mọi hoàn cản công tác. Trong những giọt nước mắt ấy có sự thương cho đồng đội không được trở về. Bà Tính cũng chờ được ngày trở chồng về! Và hằng đêm. Nguyện suốt đời chung thủy với một người.

Đó chính là những điều riêng tây mà bà chỉ muốn nói với chồng. Thế cục bà Tính giờ đây thêm một lần đau đớn. Một đồng đội gửi thư về báo tin đội viên Hồ Đức Tín bị mảnh bom phạt ngang bẹn làm mất nhiều máu và không thể cứu chữa trong điều kiện đạn bom ác liệt. Nhìn lại nét chữ thân yêu. Cho con. Những dòng nhật ký nhuốm “màu thời gian” của bà Tính Cũng từ đó.

Bởi lẽ. Những ký ức về ái tình đã giúp tôi gượng dậy và nâng bước tôi gữa thế cuộc”. Mẹ cô hỏi rõ sự tình và khuyên con gái mình hãy gượng lên để tiếp sống và làm việc. Cuộc đời bà Hoàng Thị Trinh và Hà Thị Tính là điển hình cho căn số đau thương. Mời anh cùng ăn”. Vì thời kì không có nhiều nên xin phép bác mẹ được rút bớt các lễ thức.

Ôm bo bo chồng thư và những kỷ vật của ý trung nhân. Tình cờ bà Tính gặp lại sức đồng đội cũ của chồng. Bà có tên là Hoàng Thị Trinh (sinh 1945) ở xã Nam Cát. Một ngày giữa năm 1965. Đang đứng trên bục giảng. Đã gần 50 năm trôi qua nhưng bà Trinh vẫn thuộc như in những câu thơ người thương gửi kèm trong một bức thư: “Anh gửi cho em dòng thơ tháng Bảy Nét chữ thân quen tiếp cho dòng mực chảy Những đợt sóng vô hình tràn đến xốn xang tất đêm nay như lòng anh lửa cháy Nhớ Thúy Trinh bé nhỏ.

Ác liệt. Bà Hoàng Thị Trinh và đồng đội trong ngày giỗ liệt sĩ Hồ Đức Tín Theo lời bà Tính. Một thời gian sau. Như vậy. Cho dù người đó không bao giờ trở về giữa cuộc sống thực tế. Linh giác rằng chồng đang nằm đâu đây. Bị địch giết vì đi theo cách mệnh. Nhưng hễ dừng chân ở đâu. #. Vào một ngày cuối Thu năm 1967.

Ban ngày đi làm. Trong đó có cô giáo Trinh nên hai người vẫn chưa thể gặp nhau. Em chết đi. Bà mới tin là chồng đã ra đi thật. Và có lúc bà tưởng chừng như gục ngã. Những trằn trọc và khó khăn mẹ con bà đang gặp phải. Mừng vì sắp được trở thành cô dâu.

Hằng đêm. Người đồng đội cũ của ông Minh đã phát hiện ra mộ năm xưa. Nhưng nỗi đau này quá lớn. Chăm con trai thương tật và nuôi 2 con gái học hành.

Dù vậy. Vải. Gửi nhiều thư đi nhưng không nhận được phúc đáp. Anh trót với quần chúng. Ngày bà cùng đồng đội của chồng sang xứ sở Chùa Vàng tìm mộ chồng.

Đồng đội của liệt sĩ Hồ Đức Tín lại tìm đến nhà bà Trinh. Người lính trở về từ trận mạc nại mãi cô giáo làng mới chịu đến nhà ăn bữa cơm trưa. Buổi tối hôm đó lại đúng vào ngày chi bộ tổ chức tiếp thu cho đảng viên mới. Những cuốn nhật ký có trang được dán kín lại. Xem như mình là một thành viên trong gia đình. Anh rất tin ở em và mong em làm bằng được mọi điều như những người đàn bà “ba đảm đảng khác”.

Giống như bao người vợ trông cảnh ngộ chiến tranh. Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Bà nói trong nước mắt: “Ngày xưa. Cô gái có tên Hà Thị Tính xung phong đi dân công hỏa tuyến.

Bỏ qua một số thủ tục cưới xin. Nhưng điều sâu xa là hơn 40 năm qua. Anh lại tranh thủ gắng viết thư về cho vợ. Quãng thời gian quá dài đối với một đời người. Bố mẹ tuần tự khuất bóng. Người thanh niên có tên Hồ Đức Tín - người yêu bà Trinh xuất hành nhập ngũ. Không lâu sau. Sự khôn lớn của từng đứa con bà đều chia sẻ với chồng.

Đúng hơn là với chiếc bóng của chính mình. Và chiến sĩ Tín nhờ cô giáo nhắn hộ với mẹ thầy của mình chuẩn bị 50kg nếp và 1 con lợn để làm đám cưới. Cô giáo Hoàng Thị Trinh đang tập huấn tại xã Xuân Lâm (cách nhà gần 10km) hay tin nhân tình trên đường công tác được ghé thăm nhà nhưng vẫn chờ hết buổi mới trở về.

Tôi vẫn cố nghĩ là anh ấy vẫn còn sống. Gần nửa thế kỷ viết nhật ký chờ chồng So với cô giáo Hoàng Thị Trinh. Năm mới 16 tuổi. Trong chờ và nỗi lo lắng. Còn em và con anh bỏ lại”.

Trở thành vợ của người lính trận. Bà vẫn chuyện trò với chồng qua những trang nhật ký.

Theo bà. Và điều kỳ diệu đã đến. Đêm khóc ướt cả gối. Năng lượng Mới số 317+318 Hơn 40 năm thờ di ảnh người tình Trước mắt chúng tôi là người đàn bà đã kề cận tuổi 70. Phụ nữ là những người gánh chịu hậu quả nặng nề nhất của chiến tranh.

Bà Tính không giấu được vẻ buồn bã và thống khổ. Bà Tính luôn nâng niu và xem những lá thư của chồng là bảo vật của riêng mình. Vì bữa cơm nào tôi cũng ngước lên di ảnh và thầm gọi tên anh. Thời kì như ngưng đọng lại và người phụ nữ ấy luôn sống với ký ức của một thời đã qua. Họ đã “hóa đá” để đợi chờ người bạn trăm năm theo bước chiến chinh. Mắt nhìn trân trân lên mái nhà. Linh giác của người mẹ đã mách bảo con gái mình đang gặp chuyện chẳng lành.

Bằng thịt. Bon chen. Giỗ tết. Khăn. Từ đó. Cô giáo Hoàng Thị Trinh nhận được quà của người tình gửi về từ chiến trận. Bà không ngờ rằng. Bà không dám tin đó là sự thật. Nước mắt của sự mừng vui sau suốt mấy chục năm trời. Thời đó Đảng ta đang còn giữ bí mật nên phải có giấy báo tử sống để anh hoạt động. Người mẹ ấy đã gồng mình cáng đáng mọi công việc. Đi từ trận mạc này đến chiến trường khác.

Suốt cả cuộc đời bà chưa bao giờ bà được ở bên cạnh chồng hơn một tuần lễ. Con trai 4 tuổi Trần Hồng Sơn bị áp lực của bom Mỹ nên bị thương nặng. Bà luôn hứa với chồng sẽ núm nuôi dưỡng các con lớn khôn. Thuộc Sở Y tế Nghệ Tĩnh. Những năm tháng bao cấp

Chiến tranh và những người đàn bà “hóa đá”

Sững sờ đớn đau đến tê dại. Dép. Người bố của các con… Ngày 10-6-1962”. Bà lại làm mâm cỗ đem lại nhà ba má đẻ của tình nhân để dâng lên ban thờ. Lập trường luôn hoàn tất tốt để xứng đáng là người chồng của em. Quyến luyến lúc chia tay nhưng hai người vẫn ngập ngừng. Người nữ giới xấu số ấy chia sẻ: “Trong cuộc sống rầm rĩ.

Thân hình cô gầy rộc. Một chiếc nón lá. Bà gần như chỉ có khóc. Không biết đến bao giờ bồ mới được trở về. Những lúc như thế bà luôn có cảm giác chồng đang ở bên và nghe được những điều bà nói. Rồi mưa xối xả. Mãi đến năm 1984.

Bởi lẽ. Chờ đợi tin tưởng của người lính trận. Có thời kì rảnh là ông lại viết thư về thăm vợ. Đạn nổ ở chiến trận.

Năm 1967. Nhưng ai ngờ suốt ngày Hoàng Thị Trinh lại nằm trên giường. Thế rồi. Cuộc thế anh. Những người lính năm xưa giờ đầu tóc đã bạc. Cô giáo thẫn thờ. Những lúc có thể. Bà vẫn tôn thờ người đàn ông - người lính - bồ của mình đã ngã xuống dưới đạn bom của đế quốc Mỹ. Bà Tính lại lần giở. Cô giáo Trinh lặng người khi nhận được tin bồ vừa hy sinh tại chiến trận Quảng Trị.

Giở từng trang nhật ký. Người vợ trẻ chỉ biết trải lòng mình lên trang viết (sau này bà gọi đó là những trang nhật ký): “Anh Minh! Trong bom rơi. Để cô khỏi nhìn thấy lại thêm khổ cực. Không thể khóc nổi thành lời.

Có những thời gian bà viết liên tục. Để rồi. Trưởng thành. Khi tổ quốc thống nhất đã gần 10 năm.

Những nặng nhọc. Em thay anh chăm chút Sơn. Mà chỉ rịn ra từng giọt từ khóe mắt rồi chảy trên gò má nhăn nheo. Gối xuống thắp hương và xin châm lửa để hóa. Dòng nước mắt ấy còn là nỗi xót xa. Bà vẫn chưa biết đến sự ôm ấp. Ái tình của đôi họ đến nhẹ nhõm nhưng khôn cùng đượm đà và bền chặt. Anh hơn tôi 3 tuổi. Nhưng với cuộc thế bà. Mong mỏi lớn nhất của thế cuộc bà Hà Thị Tính là đưa được hài cốt chồng về quê hương.

Hài cốt của liệt sĩ Trần Văn Minh được gói vào balô theo bà cùng cháu ngoại và đồng đội trở về quê hương… rút cuộc. “Chiến tranh không có khuân mặt đàn bà” nhưng xét ở một góc độ nào đó.

Về nhà. Buổi sáng ngày hôm ấy bầu trời nặng trĩu. Đau đớn khi người chồng yêu dấu năm xưa giờ chỉ là nắm xương tàn dưới nấm mồ hoang vắng. Vừa lo. Thân thương Anh cứ đợi trong nỗi vấn vương Vừa mới gặp nhau. Quơ cùng thắp hương cầu nguyện và san sẻ khó khăn với người phụ nữ trung trinh. Bà Tính nhớ rất rõ lần thứ nhất vào năm 1961.

Không thể chia sẻ cùng ai. “Mỗi lần cho con ăn. Trong 43 năm ấy. Thương con nhưng vợ con chỉ có một phần bé nhỏ trong trái tim anh.

Nhưng những lúc như thế. Bà luôn thắp hương và dâng lễ trước di ảnh của người thương.

Rồi lấy những bức thư cũ ra đọc. Đây là một đoạn trong một bức thư ông Minh gửi vợ: “Em xót thương của anh ơi! Đằng đẵng hai năm trời mà anh và em không nhận được lá thư nào. Đến năm 1964. Tìm đọc những lá thư chồng gửi về năm xưa. Bố và 2 anh trai đều là cán bộ tiền khởi nghĩa.

Mong ước tìm di cốt chồng giờ đã mãn nguyện. Có không ít người đàn ông tìm đến mong được gắn bó. Khi đặt chân lên bản làng ven sông Mê Công ở Thái Lan. Khổ đau. Lúc bấy giờ. Thư nào anh viết cũng khích lệ em cầm vượt qua mọi khó khăn vất vả để anh yên tâm hoàn tất nhiệm vụ…”. Giờ đây đang ở với gia đình người em trai. Bố cô phải cất chồng thư của con gái lên mái tranh.

Chia sẻ nhưng bà Trinh chỉ đáp đúng một câu là lửa lòng đã tắt. Hơn 40 năm qua bà đã khóc quá nhiều nên nước mắt không còn chứa chan.

Các đồng nghiệp phải đưa sang trạm y tế để cấp cứu. Trước cảnh ngộ đó. Bà lại chạnh lòng rồi có chút giận dỗi.

Ông được cấp trên cho phép về thăm vợ con. Lời kể của bà cũng ngập trong những tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi không nhớ đã có bao nhiêu đêm mình ngồi viết nhật ký chờ chồng” - bà kể lại. Những mảnh hài cốt màu trắng lộ ra dưới vồng đất đen.

“Tôi không thể tin nổi. Tiếp tục chúng tôi. Bà Trinh mở màn câu chuyện: “Tôi và anh ấy ở cùng làng. Tiết hạnh.

Rồi bản thân đến tuổi nghỉ hưu. Mái tóc đã phai sương và trên khuôn mặt in hằn ti tỉ vết chân chim. Rồi một ngày đầu năm 2009. Hôm nay xảy ra chuyện gì. Bà Trinh vẫn thờ di ảnh liệt sĩ Hồ Đức Tín.

Phóng sự của Bùi Khánh Huyền. Ông Minh đi biền biệt. Trách móc: “. Chiến tranh không ước hẹn. Quá sức chịu đựng đối với một cô gái đang trong độ tuổi yêu đương.

Đứa con trai út luôn là nỗi niềm đau đáu của bà. Người lính bảo rằng sắp tới sẽ xin phép đơn vị nghỉ mấy ngày để về làm đám cưới.

Bà cứ đợi chờ với niềm tin như thế. Trước khi được điều động chuyển sang công tác “đặc biệt” tại Thái Lan. Thu nhập chẳng đáng là bao nhưng được cái khuây khỏa. Chiều chuộng của người đàn ông. Cô giáo Trinh dành thời gian thêu khăn và đôi gối có hình đôi bồ câu để chờ ngày cưới. Vì chiều hôm đó người lính lại đấu lên đường làm nhiệm vụ.

Do một người đồng đội trao đến tận tay. Bao giờ cũng vậy. Bà Tính sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở Xuân An. Cảm mến nhau từ những buổi sinh hoạt chi đoàn và lao động XHCN nhưng không ai nói ra.

Xung quanh cỏ mọc um tùm. “Người gái nhỏ hậu phương” chợt thấy lo lắng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét