Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

'Mỹ cùng ngắm phẩm trí óc' và khuynh hướng phổ cập đại học.

Trong bài trả lời phỏng vấn VietNamNet, TS Ngô Tự Lập đã nhận định “Xu hướng phổ cập ĐH không phải là ngẫu nhiên; nó phản ảnh những thay đổi sâu sắc về bản tính và chức năng của trường ĐH”

'Mỹ phẩm trí tuệ' và xu hướng phổ cập đại học

Nói theo tiếng nói hiện tại, các thượng khoa là các khoa chuyên ngành, dạy nghề, còn hạ khoa là khoa giáo dục tổng quát, có mục đích khai sáng.

Theo Kant, chức năng chính của đại học là khai sáng, tức là giúp người học thoát khỏi tình trạng vị thành niên về trí tuệ để "dùng tri thức của mình là không cần sự chỉ dẫn của người khác.

Trường ĐH bảo đảm việc sinh sản ra sản phẩm hoàn chỉnh, còn nhà máy chỉ có nhiệm vụ nhân bản các sản phẩm hoàn chỉnh ấy mà thôi. Chức năng thứ ba của ĐH là chức năng sinh sản    , gắn liền với sự hình thành và lớn mạnh của nền kinh tế tri thức.

Trường ĐH Khai sáng là ĐH tinh hoa. Xin lưu ý rằng ở Hàn Quốc, có tới 81 - 84% học trò tốt nghiệp phổ quát học lên ĐH. Nhưng khi xã hội trở thành ấm no hơn, việc làm đẹp trở nên phổ biến. Thành quan trọng trong thời kì gần đây, đặc biệt ở các từng lớp đã đạt đến một trình độ phát triển nhất thiết.

Vậy bản chất và chức năng của giáo dục ĐH đã đổi thay như thế nào?  VietNamNet  xin giới thiệu phân tích của TS Ngô Tự Lập. Các Thượng khoa được gọi là thượng chỉ vì chúng nằm trong mối quan hoài của quyền lực nhà nước: các Thượng khoa dạy người dân tuân theo các quy tắc từng lớp, tức thị đào tạo các thần dân, những người thừa hành.

Điều này cũng rưa rứa như việc làm đẹp. 400 trường. TS Ngô Tự Lập. Nhu cầu về “mỹ phẩm trí não” đang tăng lên không ngừng tại hầu hết các nước và việc đáp ứng nhu cầu ấy thúc đẩy mạnh mẽ khuynh hướng phổ cập ĐH và trên thực tế biến giáo dục thành một ngành dịch vụ đầy hứa. Đối với các ngành sản xuất có công nghệ cao, các công đoạn sản xuất quan trọng nhất - nghiên cứu, thiết kế và thí nghiệm – đều được thực hiện cốt ở trường đại học.

Đây là một chức năng tương đối mới. Các trường ĐH Trung cổ phương Đông cũng có bản chất dạy nghề hao hao. Vẻ đẹp còn biểu hiện ở cả bình diện ý thức, đặc biệt là về mặt trí óc. Tác giả này cũng cho biết, tỷ lệ sinh viên so với dân số của Việt Nam chỉ bằng một nửa của Thái Lan và một phần ba của Hàn Quốc. Một thập niên sau đó, năm 1999, nhiều nước đã có tỷ lệ tuyển sinh trên 40%: Estonia (45%) và Lithuania (40%), Ba Lan (43) và Slovenia (51%)” (Marek Kwiek, 2008).

Đối với Kant, lý trí là một năng lực phổ thông mà nếu được sử dụng tự do có khả năng giúp con người khám phá thế giới và hành động đúng đắn, hợp với quy luật thiên nhiên. " Ý tưởng của Kant được Humboldt hiện thực hóa lần trước tiên tại Berlin. Khoa Triết học, trái lại, bị coi là hạ chỉ vì nó không dạy bất kỳ điều gì khác ngoài việc dùng lý trí một cách tự do.

Vì lẽ đó, quốc gia đặc biệt quan tâm và bộc trực can thiệp vào nội dung giảng dạy của các thượng khoa, trong khi nói chung để cho các giáo sư triết học tính liệu nội dung giảng dạy của khoa mình.

Ở Hàn Quốc, do truyền thống, nhiều phụ nữ ngừng đi làm sau khi lập gia đình nhưng vẫn theo học tại các trường ĐH.

Nhưng nhu cầu làm đẹp không chỉ dừng ở các khía cạnh vật chất, hữu dường như vậy. Nhiều người đã có bằng cấp và việc làm tốt vẫn đăng ký học các chuyên ngành khác nhau ở bậc đại học và sau ĐH. Trước kia, trong nền kinh tế truyền thống, nhiệm vụ của đại học là chuẩn bị cho quá trình sinh sản bằng cách đào tạo nhân lực.

Tầng lớp càng phát triển, con người càng có nhu cầu hiểu biết, không phải để trở nên “nhân công chất lượng cao”, không phải để tìm công ăn việc làm, mà nhằm tự hoàn thiện. Nhu cầu làm đẹp dẫn đến sự hình thành của cả một nền kinh tế làm đẹp. Học ĐH vì sự phát triển trí tuệ cá nhân chủ nghĩa như vậy có thể gọi là “mỹ phẩm trí não” để so sánh với “mỹ phẩn thân thể”.

Chức năng này mới chỉ trở Tác giả Mỹ Chico Harlan, trong bài viết “Vietnamese teens' thirst for college outpaces country's educational system” trên tờ Washington Post, so sánh rằng với dân số gần 89 triệu dân, Việt Nam có chưa tới 400 trường ĐH và CĐ, trong khi Mỹ, với dân số 310 triệu, có tới hơn 4. Ngày này, trong nền kinh tế tri thức, trường ĐH trở nên một nức quan yếu, nếu không nói là quan yếu nhất, của quá trình sinh sản.

Chức năng thứ tư của trường ĐH là chức năng phát triển cá nhân. Như chúng ta đều biết,    chức năng trước nhất, thường được nói đến nhất, của trường đại học là dạy    Trong nghiên cứu của mình về giáo dục ĐH của các nước cựu tầng lớp chủ nghĩa Đông và Trung Âu, tác giả Marek Kwiek cho biết: năm 1989, số học trò phổ quát học lên đại học là dưới 10% ở Albania và Romania, giữa 10% và 15% ở Hungary, Slovakia phần nhiều các nước cộng hòa Trung Á của Liên Xô cũ (Kyrgizia, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan), giữa 15% và 20% ở Croatia, Cộng hòa Czech, Belarus, Macedonia, Moldova và Ba Lan, giữa 20% và 25% ở Belarus, Bulgaria, Latvia, Russia, Slovenia và Ucraine – và tỷ lệ cao nhất là ở hai quốc gia nhỏ vùng Baltic – Estonia (36%) và Lithuania (28%).

Ông gọi họ là những người vị thành niên về trí não. Tuy nhiên, theo Kant, phần nhiều nhân loại không có khả năng sử dụng lý trí một cách tự do như thế. Các trường đại học Trung cổ phương Tây, như Kant thể hiện trong “Xung đột giữa các khoa”, có ba Thượng khoa là Thần học, Luật học và Y học và một Hạ khoa, đó là Triết học (các ngành khoa học từng lớp và nhân bản).

Ảnh Lê dũng cảm Xu hướng phổ cập ĐH không phải là tình cờ; nó phản chiếu những thay đổi sâu sắc về thực chất và chức năng của trường đại học. Số liệu của Worl Bank cho biết tỷ lệ sinh viên so với dân số của Việt Nam là 13% (năm 2006), thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển, như 70% tại Mỹ, Norway, Australia, hay giữa 70%-80% ở Phần Lan, New Zeland và Sweden (Kwiek Marek, 2008).

Trong một xã hội có trình độ phát triển thấp, việc làm đẹp là xa xỉ đối với đại phần đông người dân. Thật là vô lý khi chúng ta nhất mực đòi hỏi mọi sinh viên ra trường phải làm đúng ngành nghề đào tạo.

Chức năng thứ hai của ĐH là chức năng Khai sáng,    gắn liền với bản chất của ĐH hiện đại mà cha đẻ là Immanuel Kant. Mục đích chủ yếu của giáo dục đại học ở Trung Hoa và Việt Nam, chả hạn, là đào tạo quan tiền cho bộ máy thống trị được xây dựng trên nền móng Nho giáo. Nghề     hay nói theo cách của chúng ta ngày nay là “đào tạo nhân công”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét