Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Doanh nghiệp và dân cày cùng tán thưởng có lợi.

000ha cà phê kinh doanh (gần 1/6 tổng diện tích cà phê cả nước), bình quân mỗi héc-ta đạt giá trị tăng thêm từ 10-15 triệu đồng/niên vụ, thì mỗi năm người sản xuất có thêm lợi nhuận khoảng 1000-1

Doanh nghiệp và nông dân cùng có lợi

000ha cà phê già cỗi; đầu tư nâng cấp và xây mới công trình thủy lợi nâng cao năng lực tưới; chính sách tín dụng phục vụ sản xuất, thu mua tạm trữ và xuất khẩu cà phê.

Hiện gia đình đã tổ chức thu hái 2 đợt và còn 2 đợt nữa là thu hoạch xong, tỷ lệ quả chín đạt 80-90%. Chỉ cần làm một phép toán nhỏ về kinh tế, cũng cho thấy hiệu quả chương trình mang lại rất lớn: Nếu chúng ta xây dựng được cánh đồng mẫu lớn cho 100. Như vậy, cánh đồng cà phê mẫu lớn đã tạo ra một mô hình điểm trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cũng như trong xây dựng nông thôn mới, cụ thể hóa Chương trình xây dựng cánh đồng mẫu lớn trên địa bàn Tây Nguyên.

Điều dễ nhận thấy là việc xây dựng cánh đồng mẫu cà phê mà tỉnh Đắc Lắc đang triển khai đã mang lại ích lợi về kinh tế cả cho dân cày và doanh nghiệp. Chưa có sự vào cuộc của 4 nhà như mô hình “cánh đồng cà phê mẫu lớn” được khai triển từ tháng 4-2013.

Đối với nông dân, nhờ tiếp cận được khoa học kỹ thuật nên đã hà tằn hà tiện được phí đầu tư, nâng cao năng suất vườn cây, cải thiện chất lượng sản phẩm, từ đó tạo ra nguồn thu nhập cao hơn trên cùng diện tích. Theo đề án cánh đồng mẫu cà phê tại xã Hòa Thuận, nếu coi sóc đúng quy trình kỹ thuật, vườn cây phát triển tốt, năng suất niên vụ 2013-2014 dự định đạt 3,5-4 tấn cà phê nhân/ha, sẽ tăng thêm thu nhập 1ha cà phê từ 10-15 triệu đồng/năm, trong đó 8-10 triệu đồng từ hà tiện chi phí đầu tư, và 2-5 triệu đồng từ nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.

500 tỷ đồng. Bởi vậy, nếu thực hiện đúng các bước đề án đặt ra, kiên cố sẽ nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống dân cày”. 000 đồng/tấn. Thành thử, thành công trong việc xây dựng "cánh đồng cà phê mẫu lớn" mang lại ích lợi rất lớn, không chỉ khắc phục những tồn tại nêu trên, mà còn dùng tần tiện, hiệu quả các nguồn tài nguyên đất và nước, kiệm ước phí tổn đầu tư, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cà phê.

113 hộ dân, có tới 70% hộ sinh sản cà phê. 400ha cà phê, chiếm gần 11% diện tích cà phê của thành phố Buôn Ma Thuột; trong tổng số 3. Thu nhập sẽ tăng thêm 10-15 triệu đồng/ha/năm  Từ tháng 4-2013, với sự liên kết của 4 nhà: Nhà nước, nhà khoa học, nông gia và nhà doanh nghiệp, cụ thể gồm: UBND thị thành Buôn Ma Thuột, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, Công ty TNHH Đăk Man Việt Nam, Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang và Hội nông dân xã Hòa Thuận, tỉnh Đắc Lắc đã khai triển Đề án xây dựng “cánh đồng cà phê mẫu lớn” tại xã Hòa Thuận, tỉnh thành Buôn Ma Thuột.

Chị Thân Thiệu Lệ Quyên, cán bộ phụ trách nông nghiệp - địa chính xã cho biết: “Từ năm 2010, Hòa Thuận đã hình thành được 8 tổ kết liên sản xuất cà phê bền vững. Bài và ảnh:    KIỀU BÌNH ĐỊNH.

Với diện tích lớn cà phê ở Tây Nguyên đang do hộ dân cày quản lý nên việc xây dựng "cánh đồng cà phê mẫu lớn" ở vùng này nếu triển khai tốt sẽ đạt hiệu quả về mặt kinh tế khá cao. Dân cày Hồ Văn Sơn, thôn 6, xã Hòa Thuận cho biết: Gia đình có 8,1 sào dự cánh đồng mẫu, dự kiến năm 2013 năng suất vườn cà phê đạt 4 tấn/ha.

Tham dự mô hình này có 52 hộ nông dân, với tổng diện tích cà phê 37,5ha. Hiện toàn xã có 1. Vấn đề đáng quan hoài bây chừ vẫn là nâng cao chất lượng sản phẩm, làm thế nào hình thành cho được vùng chuyên canh cà phê chất lượng cao, thân thiện với môi trường.

Sản phẩm cà phê nhân đã được Công ty TNHH Đăk Man Việt Nam đăng ký bao tiêu với giá cao hơn thị trường 300. Đây cũng là địa phương đi đầu trong xây dựng cánh đồng cà phê mẫu lớn, vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cà phê. Cũng nhờ đó mà cà phê Việt Nam đang có năng suất cao nhất thế giới, bình quân 2-2,5 tấn nhân/ha. Vườn Cà phê thuộc cánh đồng mẫu lớn ở xã Hòa Thuận đang vào vụ thu hoạch   Hòa Thuận là vùng chuyên canh cà phê của tỉnh Đắc Lắc.

Theo đó, vùng cà phê thuộc cánh đồng mẫu được Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên phân tách mẫu đất, trên cơ sở đó đưa ra quy trình chỉ dẫn nông dân kỹ thuật làm đất, bón phân, tưới nước hợp lý, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cây cà phê trong từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển, hình thành vườn cây khỏe, kháng sâu bệnh, hạn chế việc sử dụng thuốc hóa học, nhằm tăng chất lượng sản phẩm.

Bản tính, đây là “cánh đồng cà phê mẫu lớn” thể nghiệm đầu tiên ở Tây Nguyên. Vấn đề đặt ra là muốn nhân rộng mô hình này, cần phải có sự vào cuộc của “4 nhà”, mà rường cột là sự kết liên chém giữa nhà nông với doanh nghiệp. Tuy nhiên, với sự vào cuộc của “4 nhà” như đề án đang triển khai, thì những hạn chế, yếu kém cố hữu trong lĩnh vực sinh sản cà phê lâu nay sẽ được khắc phục.

Theo nhận định của Tiến sĩ Lê Ngọc Báu, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, điều kiện về thổ nhưỡng, độ cao, khí hậu của Tây Nguyên rất hiệp với sinh sản cà phê. Chỉ khi nào hình thành được mối kết liên “4 nhà” mới tạo ra thời cơ giải quyết thỏa đáng những vấn đề lớn và cần kíp đang đặt ra đối với ngành sản xuất cà phê nước ta, như huy động vốn đầu tư tái canh hơn 120.

000ha cà phê, trong đó tụ họp cốt tử ở Tây Nguyên (550. Ngoại giả, nông dân còn tham dự các khóa tập huấn về sản xuất cà phê vững bền; được doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào tương trợ 30% lượng phân bón lá, ứng trước thuốc bảo vệ thực vật; được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm theo giá thị trường, đồng thời hỗ trợ thêm 300 đồng cho mỗi cân cà phê nhân đạt tiêu chuẩn cà phê chất lượng cao, thân thiện với môi trường.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự kết liên sinh sản giữa các hộ dân cày với nhau. Trong khi đó, doanh nghiệp cung ứng đầu vào mở rộng được thị trường tiêu thụ; còn doanh nghiệp bao tiêu đầu ra xây dựng được vùng vật liệu chất lượng cao và ổn định.

000ha với 90% diện tích do nông dân quản lý). Cần sự kết liên của "4 nhà"  bây chừ, cả nước trồng khoảng 630.

Cũng theo tấn sĩ Lê Ngọc Báu, để đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội của đề án xây dựng "cánh đồng cà phê mẫu lớn" ở Tây Nguyên phải sau 2 năm mới cho kết quả cụ thể.

Đề án sẽ được thực hành trong 3 năm (từ năm 2013 đến năm 2015) với tổng kinh phí 4,37 tỷ đồng, trong đó nguồn kinh phí do quốc gia và doanh nghiệp tương trợ 500 triệu đồng, nguồn huy động trong quần chúng 3,87 tỷ đồng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét