Từ năm 2010 trở lại đây, dù rằng thị trường thế giới rất khó khăn, đặc biệt thị trường lớn như Mỹ, EU nhưng mặt hàng XK của chúng ta đa số là mặt hàng cần yếu nên vẫn giữ được tăng trưởng khá cao
Nhưng cơ cấu, tiềm năng XK của chúng ta vẫn còn thiếu vắng các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Chẳng hạn lợi dụng được ưu đãi giảm quan thuế, hàng Thái Lan đã tràn vào Việt Nam và đang chiếm được thiện cảm của người tiêu dùng trong nước. Nhiều lĩnh vực XK của Việt Nam đều xuất hiện những vấn đề cần phải giải quyết.
Nhưng chúng ta lại chẳng thể tác động nhiều đến giá cả, không đóng vai trò quyết định được giá cả trên thị trường. Điều này cần phải nghiêm chỉnh khắc phục thời gian tới. Về mặt NK, việc giảm thuế theo lộ trình cam kết với WTO đã khiến hàng nước ngoài tràn vào việt Nam ào ạt. Giả thử trong việc XK lúa gạo. Cà phê cũng vậy, việc làm giá là của các nhà rang xay chứ không phải của chúng ta.
Điều này cũng nói lên trình độ hội nhập của Việt Nam đối với thế giới sau khi gia nhập WTO đã cải thiện đáng kể. TS Phạm Tất Thắng, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Nghiên cứu thương nghiệp (Bộ công thương nghiệp) xung quanh vấn đề này.
Đó là hướng đi vào cũng là thách thức cho kim ngạch XNK của Việt Nam trong ngày mai. Gần đây xuất hiện một đôi mặt hàng XK có giá trị gia tăng cao như dây cáp điện, điện thoại di động, máy phát điện nhưng lượng vẫn còn ít quá.
Hàng Malaysia, Indonesia cũng vậy, đặc biệt hàng Trung Quốc. Xin cảm ơn ông! Lương Bằng (thực hiện). Theo Tổng cục thương chính, kể từ khi nhập WTO (ngày 7-11-2007) đến năm 2012, tổng giá trị kim ngạch XK của Việt Nam đã vươn từ vị trí thứ 50 lên 37 trong số các nước, vùng cương vực trên toàn thế giới (trong đó, NK của Việt Nam cũng tăng 7 bậc và xếp ở vị trí thứ 34).
Tiêu chí đó dựa trên nhiều phương diện chứ không phải chỉ dựa vào việc gia tăng số lượng kim ngạch XK và NK hàng năm. Một mặt hàng XK khác cũng còn đáng tiếc là hạt tiêu. DN cạnh tranh trên thị trường XK bằng cách “đấm lưng” nhau, hạ giá để tranh giành khách hàng. Sau 6 năm nhập WTO, XNK và lôi cuốn đầu tư vẫn là hai điểm sáng và là động lực để phát triển nền kinh tế của chúng ta.
Quan yếu nhất là tầm thiết kế chính sách của chúng ta chưa đủ độ dài, độ nhạy cảm cấp thiết để tạo môi trường tiện lợi cho các DN Việt Nam và môi trường cạnh tranh đồng đẳng trên thị trường của chúng ta. XK gạo của Việt Nam đứng thứ hai thế giới, thậm chí có thời điểm “ngoi” lên thứ nhất nhưng giá gạo XK của Việt Nam lại vẫn thuộc hàng thấp nhất thế giới.
Phóng viên Báo Hải quan đã có cuộc bàn bạc với PGS
Đây là điều đáng mừng. XK thủy hải sản cập kênh, kể cả một số mặt hàng có thế mạnh như cá tra, cá ba sa, tôm. Điều này khiến hàng Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế ngay trên thị trường nội địa.
Đẳng cấp về XK và NK của Việt Nam mà Tổng cục Hải quan vừa công bố với thứ bậc đã tăng là điều tương đối tốt. Quan yếu hơn, người nông dân cũng chưa thể có được lợi nhuận nhiều từ cây lúa.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, mặc dầu đẳng cấp XNK tăng nhưng coi xét kỹ thì thấy thứ hạng này vẫn chưa tương hợp với tiềm năng, lợi thế của Việt Nam, đặc biệt chưa thỏa mãn mong mỏi của cộng đồng DN cũng như người dân.
Hàng Trung Quốc đang tràn trề thị trường. Nếu không đổi thay kết cấu này, việc XK của chúng ta thời gian tới sẽ gặp nhiều thử thách vì chưng lượng XK của một số mặt hàng chủ lực đã đến tới hạn. Năm 2012, kim ngạch XNK hàng hóa của Việt Nam đã đạt 228,31 tỉ USD, cao gấp hơn 2 lần so với kết quả thực hành của năm 2007. Nếu chỉ chú trọng vào tăng XK về lượng thì tiềm năng của chúng ta không còn nhiều.
Đây là điều tích cực. Điều đó có vẻ như chúng ta vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế khi nhập vào WTO, thưa ông? Đúng vậy. Còn bản thân các DN Việt Nam vẫn mang theo tâm lí “ăn đong”, tầm nhìn ngắn, vẫn còn vì ích lợi trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Nhưng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam đối với những hàng hóa thế giới lại khá yếu, chỉ có một vài mặt hàng của một đôi DN có thể cạnh tranh được như sữa Vinamilk, một số dịch vụ bưu chính viễn thông, đồ uống… Nhìn tổng thể nhiều mặt hàng nước ngoài đang ngày càng lấn át trên thị trường Việt Nam.
Nhưng nếu đi vào XK mặt hàng có giá trị gia tăng cao, đặc trưng của vùng nông nghiệp nhiệt đới gió mùa thì tiềm năng đó lại còn rất lớn. Xếp hạng này còn bao gồm cả các tiêu chí liên hệ đến việc thực hiện các cam kết của WTO cũng như chơi bị vi phạm những rào cản kĩ thuật trên thị trường khác, hoặc tính đảm bảo trong làm ăn với các đối tác XNK.
Thí dụ XK hoa, quả không phải dễ, phải vượt qua các rào cản quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và đảm bảo khối lượng lớn và sự ổn định cung cấp theo thời kì cho khách hàng, không được gián đoạn. Chúng ta vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế khi tham gia vào WTO, chưa nắm được thời cơ khi vào thị trường rộng lớn này. XK hạt tiêu xoành xoạch xếp số 1 thế giới, lượng XK chiếm đại bộ phận lượng hàng cung ứng ra thị trường quốc tế.
Tuy nhiên làm được điều này rất khó. Dưới góc độ một chuyên gia nhiều năm nghiên cứu về thương mại, ông có nhận xét gì về sự thay đổi đẳng cấp này, thưa ông? thứ hạng đó là một sự đánh giá của quốc tế dựa trên những tiêu chí rõ ràng, cụ thể.
Trước đó XK, NK hàng hóa của Việt Nam đã cán mốc 200 tỉ USD vào những ngày rốt cục của năm 2011… Theo nhận định của ông, tiềm năng để gia tăng kim ngạch XNK của Việt Nam trong ngày mai như thế nào? Tiềm năng gia tăng kim ngạch XNK trong năm 2013 cũng như những năm tiếp theo của Việt Nam vẫn còn khá nhiều thách thức.
Thời gian tới, vấn đề là lượng XK có thể giảm, nhưng giá trị XK thì phải tăng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét